Nhận diện “yếu tố tâm lý xã hội” để thoát nghèo bền vững
Cuộc sống vợ chồng chị Nay H’Nin ở buôn Khăn, xã Ia Sao, tỉnh Gia Lai trông chờ vào 3 sào mì nên thiếu trước, hụt sau, gia đình nằm trong danh sách hộ nghèo. Đầu năm 2024, chính quyền địa phương hỗ trợ 1 con bò sinh sản từ nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.
Nhờ tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, chị H’Nin biết cách trồng cỏ, tích trữ rơm khô làm nguồn thức ăn dự trữ cho bò, thường xuyên vệ sinh chuồng trại và bổ sung dinh dưỡng giúp vật nuôi phát triển khỏe mạnh. Chị H’Nin còn tham gia lớp xóa mù chữ do xã tổ chức, đến nay chị đã viết được tên mình và làm các phép tính đơn giản. Chồng chị được Hội Nông dân xã giới thiệu đi làm phụ hồ cho một công ty xây dựng với tiền công 250.000 đồng/ngày. Nhờ vậy, hiện cuộc sống gia đình chị dần ổn định và thoát nghèo.
Đây là một ví dụ ở tỉnh Gia Lai hiện nay. Thời gian qua, công tác giảm nghèo luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND và Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh; đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện thực tế, huy động sự vào cuộc của toàn xã hội. Nhờ vậy, công tác giảm nghèo đạt được nhiều kết quả khả quan, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số có thêm cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa và sinh kế bền vững. Những mô hình sản xuất, kinh doanh hiệu quả góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho hàng trăm lao động.
Thực tiễn đang diễn ra tại các địa phương như tỉnh Gia Lai cho thấy, từ công cuộc xóa đói giảm nghèo ban đầu, đã có sự chuyển dịch sang các phương pháp bền vững hơn, tập trung vào việc tạo sinh kế và phát triển kinh doanh thay vì chỉ hỗ trợ tiền mặt. Các mô hình này chú trọng vào hỗ trợ có điều kiện, tăng cường năng lực, và ứng dụng các nghiên cứu, sáng kiến hiệu quả, phù hợp với điều kiện địa phương, như mô hình sinh kế dựa vào chuỗi giá trị, mô hình tiết kiệm tín dụng và mô hình hỗ trợ nuôi bò sinh sản có hoàn trả vốn…
Trước đây, Việt Nam đo lường và đánh giá nghèo chủ yếu thông qua thu nhập. Chuẩn nghèo này còn gọi là chuẩn nghèo đơn chiều, do Chính phủ quy định. Với chuẩn đó, nhiều hộ thoát nghèo nhưng mức thu nhập vẫn nằm ở cận chuẩn nghèo, nên tỷ lệ tái nghèo cao. Những năm gần đây, trên cơ sở phương pháp luận đo lường nghèo đa chiều, nhiều nước đã đưa ra chuẩn nghèo đa chiều để đánh giá toàn diện hộ nghèo, tiến tới bỏ khái niệm hộ cận nghèo. Chuẩn nghèo đa chiều rất chú ý tới việc phải bảo đảm mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin) gắn với mục tiêu phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Giai đoạn 2022 - 2025 đầu tư cho giảm nghèo đã và đang có những thay đổi về tư duy trong chiến lược và cách thực hiện. Cụ thể, với cách tiếp cận chuẩn nghèo mới, ngày 27/1/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/2021/NĐ-CP quy định chuẩn nghèo đa chiều cho phù hợp với tình hình xóa đói nghèo của Việt Nam trong giai đoạn 2021 - 2025 hướng tới mục tiêu tổng quát giảm nghèo đa chiều có tính bao trùm hướng tới sự bền vững hơn, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống. Hỗ trợ các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn.
Ngày 4/2/2024, Bộ LĐ-TB&XH (nay là Bộ Nội vụ) ban hành Quyết định số 217/QĐ-BLĐTBXH công bố kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025. Theo đó, kết thúc năm 2024, tỷ lệ nghèo đa chiều (gồm tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo) năm 2024 chung toàn quốc là 4,06%; tổng số hộ nghèo và hộ cận nghèo đa chiều là 1.258.997 hộ. Trong đó, có 599.608 hộ nghèo chiếm 1,93%; 659.389 hộ cận nghèo chiếm 2,13%. Cũng theo Quyết định số 217, tính chung cả nước có tỷ lệ hộ nghèo là 1,93%, với tổng số 599.608 hộ nghèo.
Bên cạnh những thành quả, thực tiễn cũng cho thấy, yếu tố tâm lý xã hội như: tâm lý “sợ” thoát nghèo, không muốn thoát nghèo; tâm lý ngại thay đổi, an phận, cam chịu, tiết chế nhu cầu; tư tưởng, tập quán canh tác và thói quen sinh hoạt lạc hậu; tư duy, tầm nhìn hạn hẹp, lối làm việc qua loa, đại khái, hình thức… đang là những lực cản đối với quá trình thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững. Do đó, muốn thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, thì cần thấy rõ nguyên nhân thì mới có thể đưa ra chính sách, biện pháp giải quyết căn cơ, triệt để những vấn đề của người nghèo.