Di sản của Đại thi hào Nguyễn Du sống cùng lịch sử dân tộc và tỏa sáng tới tương lai
Nguyễn Du (1765-1820), tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ; người xã Tiên Điền, tỉnh Hà Tĩnh; sinh ra trong gia đình thế gia vọng tộc; sống trong thời đại Lê-Trịnh-Nguyễn đầy biến động. Điều quan trọng nhất, Nguyễn Du còn để lại di sản thơ ca lẫy lừng với kiệt tác “Truyện Kiều”, nhiều tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng, cùng 3 tập thơ chữ Hán xuất sắc.
1. Nói đến Nguyễn Du là nhắc đến vị thế đại thi hào gắn với kiệt tác “Truyện Kiều”. Đặt trong bối cảnh thời kỳ công nghiệp văn hóa, kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo (AI), “Truyện Kiều” vẫn tiềm tàng năng lượng tỏa sáng về phía trước bởi hệ giá trị tự thân với những câu hỏi chừng như muôn thuở về cõi người, cõi đời, lẽ công bằng, niềm vui, nỗi buồn, chia ly, mất mát, hoài vọng; kể cả những bất định, bất an, bất thường, bất khả giải trong cuộc sống; chạm đến thế giới hữu hình và vô hình, cái tất nhiên và ngẫu nhiên, nhân quả, tâm linh, minh triết, nhân thế, vũ trụ: “Lạ gì bỉ sắc tư phong/ Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, “Bây giờ rõ mặt đôi ta/ Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”,...
Về cơ bản, trước những câu hỏi, nghịch lý và thách đố số phận, trước sau trong "Truyện Kiều" vẫn ấm áp niềm tin yêu vào thiên lương, lẽ phải và kết cuộc có hậu: “Những người bạc ác tinh ma/ Mình làm mình chịu kêu mà ai thương”, “Hoa tàn mà lại thêm tươi/ Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”, “Còn nhiều hưởng thụ về sau/ Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồi dào!”...
|
Đại biểu tham quan trưng bày chuyên đề "Đại thi hào Nguyễn Du - Ngàn năm nhớ mãi tại Hà Tĩnh, tháng 12-2025. Ảnh: ĐÌNH NHẤT |
Đến nay, sau khi Nguyễn Du qua đời hơn hai trăm năm, "Truyện Kiều" đã “trải bao gió dập sóng dồi” (Tố Hữu) đã được thử thách qua thời gian, ngày càng tỏa sáng, bay xa. Giá trị nội dung và nghệ thuật "Truyện Kiều" ngày càng được nhận thức sâu sắc trên tất cả phương diện phản ánh hiện thực, khai thác giá trị nhân văn và số phận con người, khả năng vượt nghịch cảnh và niềm tin vào các giá trị chân-thiện-mỹ, di sản tiếng Việt và hồn thơ lục bát dân tộc độc đáo; ngày càng mở rộng tầm ảnh hưởng từ dân tộc đến khu vực và toàn thế giới.
Soi vào 3.254 câu thơ "Truyện Kiều", mỗi cuộc đời, cảnh ngộ, tâm trạng, con người cá nhân, quan hệ gia đình, giới tính, lứa tuổi, tầng lớp, thành phần, ngành nghề, vùng miền, xã hội, dân tộc, thời đại,... đều có thể nhận thấy một phần bóng hình mình trong đó.
Chính vì lẽ đó mà "Truyện Kiều" thể hiện được sức sống lâu bền, không chỉ là hồn nước “Vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là thánh thư Phúc âm của cả một dân tộc... Truyện Kiều còn, tiếng ta còn...” (Phạm Quỳnh) mà còn là tinh thần kiêm ái “Truyện Kiều là một pho sách của tình yêu, yêu tự nhiên, yêu nhân loại, yêu lý tưởng” (ĐặngThai Mai) và khát vọng nhân bản “Quyền sống của con người trong Truyện Kiều” (Hoài Thanh); thêm nữa là cách Tổng thống Mỹ Bill Clinton khi sang thăm Việt Nam năm 2000 từng “lẩy” Kiều, mượn câu thơ trong "Truyện Kiều": “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân” để ngụ ý mối quan hệ hai nước đã chuyển sang trang mới, giai đoạn mới, thời đại mới.
Trên thực tế, "Truyện Kiều" ngày càng được phổ cập, lan tỏa sâu rộng hơn, chuyển từ bản chữ Nôm và truyền khẩu nhập tâm tới phiên âm chữ Quốc ngữ, từ đọc tác phẩm đến giảng dạy trong nhà trường các cấp; từ đề vịnh, bình thơ tới nghiên cứu chuyên sâu; từ phân tích nội dung tới khai thác các phương diện thi pháp, so sánh, văn hóa học, tiếp nhận, liên ngành; mở rộng từ cổ tới kim, từ trong nước đến dịch thuật và nghiên cứu quốc tế.
Mặt khác, "Truyện Kiều" còn thâm nhập, chuyển hóa trong nhiều loại hình nghệ thuật (kể Kiều, hát Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều, cải lương, tuồng, chèo, kịch, ballet, hội họa, điêu khắc, thư pháp, bảo tàng...) và hứa hẹn phát triển trong các loại hình nghệ thuật ứng dụng công nghệ hiện đại, hình thức tân kỳ (điện ảnh, cổ trang, nhạc vũ kịch, video art, nghệ thuật sắp đặt...).
2. Bên cạnh "Truyện Kiều", Nguyễn Du còn có những bài thơ, bài ca Nôm đậm chất trữ tình hòa hợp trong lối diễn xướng dân gian ý vị quê kiểng, bình dân, bình dị. Từ thực tiễn đời sống tinh thần làng quê truyền thống, Nguyễn Du đã chưng cất, phổ quát hóa phận người trong tiếng nói cảm thông, yêu thương, ân nghĩa. Dường như Nguyễn Du đã cảm nhận, thâu thái được ngay cả những ám ảnh tinh thần ở một giai đoạn lịch sử tao loạn, biến động, bi kịch và đầy bất trắc, kể từ kẻ thứ dân đến nhà quyền quý, quan tướng, vua chúa.
Thi nhân tỏ bày niềm cảm thương đến tất thảy mọi số phận và mọi con người trong “cõi chúng sinh” đều có thể được ân hưởng “Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ/ Phóng hào quang cứu khổ độ u” ("Văn tế thập loại chúng sinh"). Theo nhãn quan duy vật thì định hướng này có phần duy tâm, chiết trung, xóa nhòa mọi quan hệ xã hội, song chính màu sắc tâm linh hướng thiện, nhân ái, hòa đồng, đại đồng này lại có thể gia tăng niềm cảm thông, tha thứ, buông bỏ, góp phần an ủi, xoa dịu nỗi đau tinh thần cho mọi con người trong cuộc bể dâu.
Theo thời gian, quá trình "Truyện Kiều" tồn tại và đi vào cuộc sống đã tự định hình cả một “lịch sử tiếp nhận” và “nghiên cứu sự nghiên cứu” kiệt tác truyện thơ của Nguyễn Du. Đồng hành với từng thời đại đã xuất hiện nhiều cách thức nhận diện, đánh giá "Truyện Kiều" khác nhau: Tiếng nói của người đương thời, cùng thời, cùng trong sinh quyển văn hóa cuối mùa phong kiến (Phạm Quý Thích, Nguyễn Văn Thắng, Tiên Phong Mộng Liên Đường, Đào Nguyên Phổ, Hồ Xuân Hương, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến...); sự phân hóa quyết liệt hồi đầu thế kỷ 20 (Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Trần Trọng Kim, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Trương Tửu...), đến khoảng giữa thế kỷ và từ thời đổi mới (năm 1986) đã ngày càng trở nên chuyên nghiệp, chuyên sâu, toàn diện hơn (Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Vũ Hạnh, Nguyễn Lộc, Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Phạm Công Thiện, Thích Nhất Hạnh, Trần Nho Thìn...), chưa kể đến nhiều công trình đậm chất học thuật của các nhà Việt học và Kiều học ở nước ngoài.
3. Về 3 tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du lại thiên về biểu cảm nội tâm, bày tỏ tiếng nói thân phận cá nhân hơn là cộng đồng, chiêm nghiệm hơn là hành đạo, nỗi buồn hơn là niềm vui, thương cảm hơn là tụng ca vua sáng tôi hiền, đề vịnh sự nghiệp kinh bang tế thế, bốn bể thanh bình. Mặc dù theo quan niệm phong kiến và ngay trong gia đình, anh em ruột thịt cũng theo những phe phái khác nhau và chính Nguyễn Du từng làm quan và được tin dùng, thăng thưởng trong suốt triều Gia Long nhưng trước sau ông vẫn giữ khoảng cách với thế sự, vẫn đau đáu một lối suy tư thiên khải, thi sĩ, nghệ sĩ, vượt lên thường nhân, thói thường, đời thường, lẽ phải thông thường, sự giàu sang, quyền cao chức trọng.
Chính vì thế mà thơ chữ Hán của Nguyễn Du thường nhạy cảm với ban chiều, bóng tối hơn là hừng đông, ánh ngày; thương cảm chúng dân hơn kẻ sang giàu, tự thuật hơn xướng họa, đồng cảm với bi kịch hơn hùng ca, ly tâm về tiếng nói cá nhân hơn hướng tâm tụng ca vương triều, thánh đế.
Trên phương diện nghệ thuật, Nguyễn Du cảm nhận về sự hữu hạn, mong manh của đời người và danh vọng, chỉ dám sánh với nàng Phùng Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh: “Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/ Người đời ai khóc Tố Như chăng?” ("Độc Tiểu Thanh ký"); mặt khác, ông tỏ rõ thái độ trước những thiện-ác, đúng-sai nhưng lại đi tới chiết trung, coi mọi sự sang giàu, chức quyền, buồn vui, được mất cũng chỉ là hư ảo: “Đâu đất Tôn, Lưu giành giật mãi/ Một vùng cây cỏ chốn hoang vu" ("Sở vọng")...
Đặc biệt hơn, khi đi qua Lũy Thầy có từ thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, Nguyễn Du nhấn mạnh cảnh thanh bình “xa thư đại đồng”, xác định hiện trạng phế tích pháo đài còn đó bất chấp “núi lở đá tan”, bất chấp chiến cuộc Nguyễn-Trịnh đã qua đi, đã trở thành quá khứ, đã hóa thành chuyện vô nghĩa, hư không. Qua sự đối lập giữa chiến tranh và hòa bình, Nguyễn Du mừng vui khi đất nước thu về một mối, gián cách ngay cả với những ta-địch, chính- phản, thắng-thua mà đề cao đức hiếu sinh, vẻ đẹp hồn toàn của tạo hóa và cuộc sống thanh bình: “Hại vật trước kia đà kém đức/ Giết người sau chẳng kể là công/ Thanh bình thời thế không chinh chiến/ Cày cuốc trâu bò trọng việc nông” ("Pháo đài")...
Phải ghi nhận rằng tâm thức "Giết người sau chẳng kể là công" của Nguyễn Du thật vô cùng siêu việt, hiện đại, đạt đến tầm cao giá trị nhân văn muôn thuở, đạt tới tính Phật, tinh thần yêu chuộng hòa bình của bậc hiền triết, minh triết. Câu kết của bài thơ hướng đến khẳng định cuộc sống lao động đời thường bình dị, bình yên và niềm hy vọng: "Cày cuốc trâu bò trọng việc nông"...
Đại thi hào Nguyễn Du đã để lại di sản kiệt tác thi ca cho hậu thế, cho dân tộc và nhân loại. Tiếng thơ Nguyễn Du nối những suy tư cá nhân với đại chúng, nối điều tai nghe mắt thấy với mênh mang đất trời, nối những lo toan thế sự hôm nay “tham, sân, si, ái, ố, hỷ, nộ” với vô cùng vô tận thời gian, không gian, vũ trụ. Muôn kiếp con người đều sống trong “cõi người ta”, “cuộc bể dâu” nên mãi mãi sẽ đồng vọng cùng tiếng thơ Nguyễn Du và mãi còn có thể khai thác, tiếp nhận, lan tỏa các giá trị cùng thời đại, dân tộc và nhân loại.





In bài viết
