Ưu tiên đầu tư công nghệ sinh học trong nông nghiệp
Để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm và bảo vệ môi trường sống, ngành Nông nghiệp cần phải ưu tiên phát triển công nghệ sinh...
Nghị quyết số 57-NQ/TƯ ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được xem là "kim chỉ nam" để tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển bền vững của ngành Nông nghiệp.
Kiểm tra chất lượng lúa TBR225 tại xã Liên Mạc (huyện Mê Linh). Ảnh: Hương Giang
Củng cố vị thế nông sản Việt Nam
Hiện có nhiều nghiên cứu khoa học, công nghệ đang được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, như: Công nghệ gen: Phân lập gen, thiết kế vector chuyển gen, tạo giống cây trồng biến đổi gen (ngô, đậu tương, xoan ta, thông, bông, cà chua, khoai lang, sâm); công nghệ vi nhân giống: Quy trình vi nhân giống bạch đàn uro, keo lai, cây hoa, rong biển; công nghệ chỉ thị phân tử, công nghệ tế bào xác định được các nguồn di truyền mang gen hữu hiệu phục vụ công tác lai, tạo giống cây trồng, vật nuôi, động vật thủy sản kháng bệnh, chống chịu yếu tố môi trường bất lợi, cải tiến chất lượng…
Ngoài ra, công nghệ sinh học tạo ra sự đột phá, những kỹ thuật nhân giống hiện đại, kỹ thuật di truyền và chỉnh sửa bộ gen đã cung cấp các giống mới với các tính trạng mong muốn ở cây trồng, như: Tính chịu hạn, kháng bệnh, chống chịu mặn…
Việc quan tâm đến công tác nghiên cứu, chọn tạo giống có năng suất, kết hợp với việc triển khai đồng bộ kỹ thuật đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng của ngành Nông nghiệp. Năm 2024, sản xuất trồng trọt tăng 2,2%, giá trị xuất khẩu đạt 27,38 tỷ USD; duy trì các mặt hàng xuất khẩu hơn 2 tỷ USD, gồm có gạo, cà phê, rau, cao su. Hiệu quả tăng trưởng ngành, giá trị xuất khẩu nông sản liên tục tăng, nhất là sự tăng trưởng nhanh, ngoạn mục của ngành hàng rau, quả từ dưới 1 tỷ USD trong vòng 15 năm, đã vươn lên 6,2 tỷ USD; giá trị xuất khẩu trồng trọt/đơn vị diện tích tăng nhanh, từ dưới 100 triệu VND/ha/năm, đã vươn lên 130 triệu VND/ha/năm…
Từ nghiên cứu khoa học, công nghệ đã tạo giống lúa chất lượng cao, như: Bắc thơm số 7, TBR225, TBR39-1, Đài thơm số 8, St24, ST25… Nhờ đó, gạo Việt Nam đoạt giải gạo ngon nhất thế giới và năm 2024 xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt kỷ lục, lên tới 9,18 triệu tấn.
Đối với giống bộ nhóm cây rau được chọn lọc và tự công bố lưu hành nhiều giống ngắn ngày, màu sắc, kiểu dáng thay đổi và hấp dẫn theo từng thời kỳ, như: Cải bắp, su hào, cà rốt, cây ăn lá, củ cải đỏ, ngô sinh khối…, đáp ứng rất tốt và nhanh thị hiếu cũng như yêu cầu thị trường. Đến nay, đã có 20 giống cà phê được công nhận, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, sản lượng cà phê xuất khẩu tới 80 quốc gia và vùng lãnh thổ…
Bên cạnh đó, công nghệ chỉnh sửa gen, đặc biệt là hệ thống CRISPR/Cas9 đang mở ra một kỷ nguyên mới cho chọn tạo giống cây trồng, trong đó giống cây bản địa là một trong những đối tượng hưởng lợi rõ nét. Với khả năng tạo ra đột biến chính xác, nhanh, chi phí thấp và không cần đưa DNA ngoại lai vào cây, công nghệ này cho phép giữ lại các đặc tính quý giá của giống bản địa, trong khi cải thiện được các tính trạng quan trọng, như năng suất, chất lượng, khả năng chống chịu sâu bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, số lượng các đơn vị nghiên cứu ở Việt Nam có thể làm chủ và ứng dụng thành công công nghệ chỉnh sửa gen vẫn còn rất hạn chế. Các nghiên cứu chủ yếu vẫn dừng lại trong phòng thí nghiệm, chưa thể chuyển sang quy mô sản xuất đại trà. Việc thiếu hành lang pháp lý cụ thể, khiến các nhà khoa học, cơ quan quản lý và doanh nghiệp đều gặp khó trong việc tiếp cận và triển khai các sản phẩm tiềm năng…
Trong khi đó, xu thế trên thế giới đang tiến rất nhanh, với nhiều sản phẩm chỉnh sửa gen đã được thương mại hóa tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Brazil…
Vì vậy, Nghị quyết số 57-NQ/TƯ ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là động lực quan trọng để ngành Nông nghiệp đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất để tạo ra những sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, đáp ứng với xu thế hội nhập quốc tế…
Tạo cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển
Để triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TƯ của Bộ Chính trị trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy khẳng định, nghị quyết này được ban hành vào thời điểm chuyển đổi số đã trở thành xu thế tất yếu, không còn là một khái niệm mới mẻ. Thời gian tới, Bộ sẽ tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách và cải cách thủ tục hành chính nhằm khơi thông dòng chảy đổi mới trong cả khu vực công và tư. Việc huy động hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước cho khoa học công nghệ sẽ đóng vai trò then chốt.
Nhằm đưa Nghị quyết số 57-NQ/TƯ của Bộ Chính trị đi vào thực tiễn và mở ra kỷ nguyên mới về khoa học, công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ chọn dự án khoa học, công nghệ trọng điểm của ngành, trong đó ưu tiên cho công nghệ sinh học, công nghệ gen. Qua đó nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm tài nguyên và tạo giá trị gia tăng cho ngành Nông nghiệp. Cùng với đó, Bộ hỗ trợ ứng dụng kết quả nghiên cứu công nghệ sinh học hiện đại trong sản xuất sản phẩm nông nghiệp; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ làm chủ công nghệ sản xuất các sản phẩm công nghệ sinh học quy mô công nghiệp trong nông nghiệp.
Đặc biệt, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chú trọng xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp sinh học để khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào nghiên cứu và sản xuất sản phẩm công nghệ sinh học nông nghiệp, quy mô công nghiệp. Nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, nhất là trong lai tạo giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao, phù hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của từng địa phương. Ngoài ra, tiếp tục đầu tư cho các nhóm nghiên cứu trong nước; mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế có kinh nghiệm về công nghệ sinh học, chỉnh sửa gen.
Cùng với đó là xây dựng cơ chế quản lý minh bạch, linh hoạt để đánh giá, cấp phép và sử dụng các giống cây trồng chỉnh sửa gen phù hợp với thông lệ quốc tế. Một khung pháp lý rõ ràng sẽ là nền tảng để kết nối nghiên cứu - quản lý - doanh nghiệp, giúp đưa các sản phẩm từ phòng thí nghiệm nhanh chóng ra thị trường. Qua đó nâng cao năng lực chọn tạo giống trong nước, khai thác hiệu quả nguồn gen bản địa, góp phần vào phát triển một nền nông nghiệp hiện đại, xanh và có giá trị gia tăng cao.
Toàn ngành quan tâm phát triển đội ngũ nhân lực khoa học, công nghệ, trong đó nghiên cứu cơ chế khuyến khích, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ để huy động sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học trong nước và quốc tế. Ngoài ra, cần tập trung chuyển đổi số toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của ngành Nông nghiệp, tạo tiền đề để đổi mới toàn diện phương thức quản lý từ hoạch định chính sách đến chỉ đạo điều hành, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, hướng đến tăng trưởng nông nghiệp xanh, bền vững.
Trong bối cảnh ngành Nông nghiệp đứng trước yêu cầu chuyển đổi mạnh mẽ, nhằm đáp ứng các xu thế mới của phát triển bền vững, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế, việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất là yêu cầu tất yếu, là động lực quan trọng để nâng cao hiệu quả, tăng năng suất lao động, bảo vệ tài nguyên, môi trường và chất lượng sống của người dân.