• :
  • :

Trăng lặn

Lão Hạo rướn cái thân gầy guộc như khúc củi mục, ngửa mặt đón từng giọt mưa rơi quất thẳng vào da thịt.

Trăng lặn
 

Mưa rát. Mưa nghiến. Mưa như muốn lột xác một kẻ đã đến tận cùng của nỗi chịu đựng. Mặn - cái vị mặn thân thuộc của muối - giờ đây chẳng còn đọng lại trên môi lão nữa, chỉ còn vị nhạt toác, hoang hoải như chính đời mình.

Lão cắm đầu chạy, chân lấm bùn, tay quờ quạng như kẻ mù lòa giữa chợ đời, nhưng mưa thì cứ đổ xuống, xối xả, nhấn chìm cả ánh nhìn mòn mỏi lẫn hy vọng cuối cùng còn sót lại. Lão không còn khóc như một người đàn ông. Lão khóc như một thân phận bị dồn đến tận mép vực, nơi không còn đường lui.

Những tiếng nấc bật ra từ cổ họng khô khốc, hòa lẫn tiếng mưa mà nghe như tiếng đá đổ vào hồn. Lão đã từng mất muối, nhiều lần, đến mức tưởng mình chai sạn. Nhưng lần này... lần này, lão mất cái còn mặn hơn muối: Niềm tin.

Lão Hạo ngồi ủ rũ như một tảng đá mòn bên phiến đá lạnh lẽo, đôi mắt khô rốc hướng ra biển xám xịt đang gầm gào giận dữ. Biển không còn là biển nữa. Nó hóa thành một con thú bị thương, rống lên những tràng dài u uất, kéo theo từng đợt sóng đập nát vào bờ như đang quật nát trái tim già nua rệu rã của lão.

Dưới chân lão, dòng nước xiết từ cống cuồn cuộn tràn ra cửa biển, thứ nước đục ngầu, đỏ au như máu loãng, như chính mảnh hồn tan nát của một người cha vừa bị đâm một nhát chí mạng vào chỗ yếu hèn nhất: Niềm tin vào đứa con gái máu mủ của mình.

Mưa không to nhưng rơi đều, thầm thì như tiếng khóc bị nén lại của đất trời. Trời khóc hộ lão chăng? Hay cả đất trời cũng đang oằn mình trước nỗi đau của một kiếp người làm muối? Lão ngồi đó, lặng như đá, mặc cho mưa táp vào lưng, mặc cho gió gào qua mái tóc rối như sợi rơm mục.

Tiếng lòng lão, một thứ âm thanh rền rĩ mà chỉ kẻ chạm đáy mới nghe được, cứ thế trôi dọc theo tiếng sóng, lẫn vào nước, vào mưa, vào cả những vết chai trên đôi tay từng gồng gánh cả đời.

Làng lão chẳng có cổng. Lối đi thì nhiều, nhưng chẳng lối nào dẫn đến bình yên. Biển từng là bạn, là mẹ, là chốn nương thân hào phóng ban cho lão bao đợt gió nồng vị mặn, bao vạt nắng rát lưng để làm nên hạt muối trắng ngần. Lão vắt kiệt cả tuổi thanh xuân dưới cái nắng gắt để xe ẻ, đúc chạt, cạo muối.

Con gà chưa gáy, lão đã trầm mình trong đêm vãi cát để mảnh trăng gục đầu tắt lịm trên vai núi mờ xa. Bao mùa mưa lũ, bao phen biển giận, trời nổi, muối mất, lão vẫn đứng dậy, vẫn cần mẫn làm lại từ đầu bằng việc vá lề, nạo cát bị tấp với niềm tin. Bởi vì lão còn con. Còn ước vọng đổi đời. Còn cái mơ ước mong manh: Một đứa con gái được học hành, được ra khỏi làng, thoát khỏi cái khổ.

Nhưng giờ đây, khi sự thật phũ phàng ập đến như con sóng dữ, lão Hạo không còn biết bấu víu vào đâu. Đứa con gái lão hằng thương yêu, nâng niu như báu vật, nay lại dấn thân vào chốn nhơ nhuốc, trở thành một cô gái nhảy nơi đô thị phù hoa. Tim lão nghẹn lại.

Không có dao nhưng như thể ai đó đã xẻ đôi lòng lão bằng chính cái tin độc địa kia. Lão muốn gào lên, nhưng cổ họng nghẹn cứng. Muốn khóc, nhưng mắt đã cạn khô. Chỉ có tiếng biển gào, tiếng mưa quất và gió hú, tất cả hợp thành một bản nhạc tang thương cho nỗi tuyệt vọng khôn nguôi.

Lão Hạo hướng mắt về phía làng. Ngôi làng nhỏ bé nằm lọt thỏm dưới chân con đê đất sẫm màu. Nơi ấy, cả tuổi thơ, tuổi trẻ, cả đời lão đã hòa vào từng thớ đất, từng thăng trầm con nước. Triền đê ấy, ngày còn trai tráng, lão cùng bao người trong làng vun từng thúng đất, ghè từng nhát cuốc để đắp cao lên.

Có năm bão quật đến như hung thần, đê vẫn đứng. Nhưng cũng có năm, đê như thân già của lão, run lên bần bật trước cơn cuồng nộ của sóng. Lão tự hỏi: Đê còn biết oằn mình để chống chọi với bão, còn đời lão, liệu có đủ sức gồng lên chống lại sóng đời đang cuộn xiết lấy tim mình?

Lão nhắm mắt. Ký ức bỗng chầm chậm quay về như một thước phim cũ, úa màu nhưng đau đáu. Ngày còn bé, khi mới tập bò trên cây cầu gỗ ọp ẹp bắc qua con kênh đầu làng, lão đã quen với mùi mặn mòi của gió biển, của muối thô còn vương trên tóc mẹ cha. Những buổi chiều chạng vạng, khi mặt trời cúi đầu mỏi mệt sau một ngày rọi nắng trên đồng muối, lão theo chân cha đẩy xe tang, xe xêu.

Tiếng bánh xe gỗ kêu cút kít nghe sao vui tai lạ. Khi ấy, lão nghĩ: Lớn lên làm nghề muối như cha mẹ cũng hay. Nhưng càng lớn, tiếng xe ấy nghe càng não lòng. Nó không còn là âm thanh của tuổi thơ, mà là tiếng rên rỉ báo hiệu một kiếp người còng lưng dưới cái nắng chang chang để đổi lấy vài chục nghìn bạc rẻ như bèo.

 

Lão sống cả đời trong muối. Mặn môi, mặn lòng, nhưng lòng chưa bao giờ đắng như bây giờ. Bao nhiêu ngày tháng, lão nhịn ăn, nhịn mặc, còng lưng gom góp từng đồng gửi con gái lên phố học cao đẳng du lịch.

Lão không mơ cao, chỉ mong con gái có một công việc ổn định, được đi đây đi đó, được mở mang đầu óc, được sống nhẹ nhàng hơn đời lão. Mỗi lần con gái gọi điện về, ríu rít kể chuyện trường lớp với mẹ nó, lão ngồi cười một mình. Có lần, con bé còn khoe: “Bố ơi, con nói được tiếng Anh với người nước ngoài rồi. Sau này con sẽ dẫn khách nước ngoài về làng mình chơi!”.

Nghe con nói, tim lão nở hoa. Lão mường tượng một ngày không xa, người nước ngoài tới làng, được con gái mình giới thiệu về những nét đẹp của quê nhà - nơi mỗi mùa lễ hội, người làng vẫn múa lân, kéo co, đấu vật, đi cà kheo, bơi sải, đua thuyền độc mộc… Làng tuy nhỏ, nghèo, nhưng chưa bao giờ cạn tình, cạn nghĩa.

Lão mừng vì con gái lão không phải gồng mình giữa cánh đồng cát để đúc chạt, cạo muối, không phải phơi lưng giữa trưa nắng như lão từng làm. Lão nghĩ: “Con mình thoát rồi. Nó sẽ không khổ như mình”. Nhưng hóa ra... lão đã nhầm… “Gái nhảy” - Hai tiếng ấy cứ đeo bám lão.

Sự thật lạnh lùng như một vốc muối hắt vào vết thương. Lão chết lặng, đau đớn. Hình ảnh con gái thẹn thùng khoe lần đầu mặc áo dài chụp ảnh thẻ ngày nhập học bỗng tan biến trong tâm trí, thay vào đó là những ánh đèn mờ tỏ, những điệu nhảy điên loạn và tiếng nhạc chát chúa.

Lão đau. Không chỉ vì con phản lại kỳ vọng, mà đau vì hóa ra, lòng tin lão gửi vào tương lai lại quá mong manh. Sóng đời lần này không chỉ cuốn mất muối, mất công, mà đang cuốn trôi cả điều thiêng liêng nhất: Lòng tin của một người cha dành cho máu mủ của mình.

Nắng nhạt. Nắng mới đổ xuống cánh đồng cát thứ ánh sáng nhờ nhờ như da người ốm sốt lâu ngày. Lão Hạo không làm muối mà phơi ruộng cho khô, cho nhiễm mặn. Chả có nghề nào như nghề của lão. Chả có trò đời nào trớ trêu như lão.

Lão cắn răng chưa dám hé nửa lời với bà Mến - vợ lão về chuyện con Thắm. Lần này nó về, lão quyết cho nó một trận. Lão nhủ thầm. Đời lão chưa lần nào đánh con nên lão xót lắm. Xót và đau, mảu chảy ruột mềm. Đặng có ai thương lão không?

Lão hấp hả chạy về nhà khi nghe người ta đánh tiếng ra ngoài đồng con lão về. Vất cái nón đã long vành bên bậc chái, lão bước qua ngưỡng cửa vào nhà. Cái lành lạnh và mờ tối của ba gian nhà gỗ khiến lão phải gắng lắm mới nhìn tỏ mặt con.

Con Thắm gầy hơn. Con còn đây mà lão mất… mất thật rồi sao? Bà Mến dọn cơm lên, bà đon đả gắp thức ăn cho con. Lão trầm ngâm. Giờ lão mới nhận ra cái khuôn mặt, nụ cười, cái giọng nói quen thuộc của con, nó chất chứa phần hồn của lão. Cái ý nghĩ đánh con bay vụt trong đầu lão lúc nào không hay.

Đến khi đặt lưng lên giường, lão lại trằn trọc. Lão khóc thầm. Có tiếng dế rền rĩ than thay cho tiếng lòng của lão. Có vầng trăng lưỡi liềm mắc kẹt trên ngọn tre chứng cho nỗi đau của lão. Không ngủ được, lão trở dậy ra đồng vãi cát. Mỗi lần lão quay cán xêu, thân hình gầy guộc lại vặn đi như vỏ đỗ khô.

Gió nồm Nam hây hẩy hong mồ hôi cho lão. Sóng biển âm âm giữ trong lòng những suy tư như lão. Lão nghèo mà chất phác. Lão sống một đời lao lực, thiện lương mong đến khi thác xuống được an lòng. Ấy vậy mà… Trong lòng lão chợt gợn lên cái cảnh xa xôi khi người ta rút dây, ném cho vài nắm đất lên tấm ván thiên, có kẻ than: “Khốn nạn lão Hạo ơi!”. Người ta thương lão.

Vì thương, người ta mới cho lão hay cái tin trời đánh ấy. Lão Kế - bạn từ thời lão còn đi kè con hà rút ruột cho mẹ đi chợ bán - kề tận mặt lão cái điện thoại cảnh con Thắm đang nhảy nhót với một thằng cha mặc quần ống loe, đi giày Tây. Rõ khổ! Chuyện ở cái làng này lan nhanh lắm. Rồi mai mốt bà Mến cũng biết thôi. Lão thương bà, cùng cảnh nghèo mà gá nghĩa nên duyên.

Hai vợ chồng hiếm muộn mãi mới có mụn con. Hằng ngày, bà Mến vẫn làm muối với lão. Những ngày râm mát, bà thồ muối đi chợ bán hoặc đổi gạo cho những người trồng lúa ở mạn trong xa biển. Khi bà đổi gạo, đổi hành khô, miến... Có lúc bà đổi về cả một xâu cá đồng ăn đổi bữa. Đàn ông mà có chút là lạ, tanh tanh nhắm với cút rượu nếp quê là nhất. Đời lão cũng lắm lúc lên hương như vậy.

Có bóng người lách qua rặng dừa nước, dáng mảnh khảnh in trên nền cát loang loáng ánh trăng muộn. Lão Hạo dừng tay, mũi xêu lặng phắt trên mặt ẻ đang cào dở. Lão nhổ nước bọt vào lòng bàn tay, xoa mạnh, như thể đang xua đi cơn run rẩy bất chợt dâng lên từ đâu đó trong lồng ngực. Bóng người kia tiến lại gần, vác cây xêu như vác thập tự giá, dáng lảo đảo giữa khoảng không mặn chát của đồng muối. Là con Thắm. Lão nhìn nó. Lâu, rất lâu:

– Con không quen dậy sớm, làm nặng, ốm ra thì khổ! – Lão nói, giọng cố giữ ôn tồn như từng cơn gió biển lặng lẽ ban mai.

– Con không sao đâu bố. Tuổi của bố mới cần nghỉ ngơi.

 

Thắm cắm phập cán xêu xuống đống ẻ gần đó. Động tác của nó cứng cỏi, dứt khoát mà lão thì chợt thấy tim mình nhói lên như có gai dăm vừa xuyên thủng.

– Con nói đi… – Lão nhìn xoáy vào mắt nó – Mày đi nhảy thật phải không?

Thắm sững người.

– Sao… sao bố biết?

– Người ta chụp được ảnh mày. Người ta đang thì thào đầy mồm kia kìa.

– Nhưng… – Giọng Thắm run.

– Không “nhưng” với “nhị” gì hết! Bỏ. Bỏ ngay! – Lão gằn từng tiếng, ánh mắt như lưỡi dao sáng loáng chém ngang mặt nước muối đang lặng.

Thắm lùi lại một bước. Mặt nó tái đi. Chưa bao giờ nó thấy cha mình như thế, giận dữ, nghẹn đắng, đau đớn. Không phải vì danh dự mà là vì thất vọng. Như thể trong khoảnh khắc ấy, một điều gì thiêng liêng trong lòng ông cụ đã vỡ ra, vỡ vụn, mặn đắng như nước cái trong thống.

Lão Hạo siết chặt cán xêu, tay run bần bật. Lưng gù xuống như muốn gập đôi giữa trời đất. Rồi lão quay đi, không nói thêm một lời. Thắm đứng đó, trơ trọi tựa một dấu lặng bị gió xé toạc giữa cánh đồng cát hoang hoải, mênh mang.

Lão Hạo bước tới miệng thống cái, dìm sâu cái bầu vào lòng nước mặn. Chất nước đen sóng sánh dâng tràn, phản chiếu ánh sáng đầu ngày le lói. Lão đổ nước vào ô lề, lặng lẽ như một nghi lễ. Vầng trăng non đã chìm, nhường chỗ cho bình minh đang rạch ngang chân trời một đường sáng lặng lẽ, vô tình.

Lão Hạo xoay xở với từng bầu nước cái. Gió nồm thổi qua làm những sợi tóc bạc lả tả trên trán lão rung lên từng nhịp mỏi. Đôi vai lão dường như còng thêm một chút, mỗi khi nghĩ đến tiếng cười chói lóa của con gái mình vang lên giữa những ánh đèn màu, giữa đám đông thị thành ồn ã.

Lão không biết đó là vũ trường hay sàn diễn. Lão chỉ thấy… khác. Khác với cái nết của ruộng đồng cát nâu mộc mạc, khác với cái lặng lẽ trắng ngần của muối và đời lão. Mà cái khác ấy, nó làm lão sợ.

Đêm đó, khi bà Mến đã ngủ say sau một ngày nhọc nhằn, con Thắm ngồi bên hiên, tóc xõa. Nó kể cho lão nghe. Nhẹ thôi. Rời rạc. Nhưng mỗi câu, mỗi chữ như từng nhát búa gõ vào vách cứng của lòng cha.

Nó đi làm nhảy. Không phải là “gái nhảy” mà là nhảy múa - nghệ thuật dân gian, sáng tạo từ chính lối đi cà kheo của làng, thêm vào tiết tấu mới. Nó bảo nó không mặc đồ hở, không múa uốn éo như người ta đồn. Nó đi biểu diễn trong đoàn nghệ thuật cộng đồng, đi giao lưu văn hóa và gây quỹ giúp trẻ em ung thư. Nó bảo:

Con chỉ muốn sáng tạo để điệu đi cà kheo quê mình được người ta biết và hiểu rằng người làng mình có nét đẹp văn hóa riêng, người dân có ý chí và tinh thần lạc quan không dễ khuất phục trước thiên nhiên khắc nghiệt.

Lão Hạo không hiểu hết. Nhưng lão tin vào ánh mắt con mình. Ánh mắt ấy không nói dối. Lão nhớ lại hồi bé, con Thắm đứng giữa sân vòi lão dạy đi cà kheo. Nó giữ thăng bằng tốt. Lên 5 tuổi, nó đã theo hội múa lân của làng đi diễn tận trên huyện. Lão cũng đi theo. Nhìn nó nhún nhảy trên đôi cà kheo theo nhịp trống dồn đến ngộ, đến yêu. Khi đó, có ai chê con lão là “gái nhảy” đâu!

Lão Hạo ngồi lặng. Lưng lão như nhẹ bớt. Không phải vì hiểu hết mà vì thấy con không mất. Con lão vẫn ở đây. Vẫn mang cái hồn quê, chỉ là nó đang tìm cách vẽ lại cái hồn ấy trên tấm bản đồ lớn hơn.

 

Sáng hôm sau, trời hửng. Mây tan như khói, nhẹ tênh. Cánh đồng muối trắng lấp lánh trong ánh nắng đầu ngày như một tấm gương phẳng soi lại những gì đã mất, còn. Con Thắm dậy sớm, tay cầm xêu cùng lão Hạo vãi cát. Hai bóng người – một già, một trẻ – lầm lũi bên nhau, in lên mặt cát ướt hai vệt dài loang lổ rồi dần tan trong ánh nắng vừa rót xuống từ phía chân trời.

– Bố à, có thể năm nay con không về thường xuyên… Mấy tháng nữa ra trường, xin làm du lịch văn hóa tại Hà Nội. Ở đó có sân khấu thực cảnh tái hiện lại cảnh lao động của người dân Việt mình. Con muốn một ngày, được đưa điệu cà kheo làng mình, quy trình làm muối của diêm dân quê mình đến gần hơn với bạn bè khắp nơi.

Lão im lặng. Rồi gật. Không cản, không ép. Nhưng là cái gật đã khác, không phải của một người cha quen áp đặt, mà là của một kẻ cả đời sống cùng muối, giờ đang học cách để lòng lặng xuống, tin thêm một lần, tin vào đứa con từng làm tim lão rạn nứt rồi lại hàn gắn bằng ánh mắt không biết nói dối.

Phía xa kia, nơi rìa trời, mặt trời rẽ mây, ló rạng như thể chờ cho trăng lặn hẳn mới dám ló ra. Ánh nắng đổ xuống đồng muối những tia vàng thanh nhẹ, không chói gắt mà ấm áp, dịu dàng, rải lối cho một chuyến đi xa – chuyến đi của tuổi trẻ, của đổi thay, của khát vọng gìn giữ cái đẹp theo cách của mình, trong thời của mình.

Lão Hạo ngẩng nhìn bầu trời. Không còn vầng trăng treo trên ngọn tre, không còn ánh bạc mênh mang phủ kín đồng muối đêm. Nhưng lòng lão không tối. Cũng chẳng còn ướt. Chỉ rỗng rang – cái rỗng của một người đã dốc hết thương yêu, hết hy sinh vào một điều gì đó lớn hơn chính mình.

Trăng lặn - không phải để biến mất. Mà để bình minh lên. Nhường ánh sáng cho một thế hệ khác tiếp bước. Lão hiểu: Đời mình là đời muối - cằn khô, chắt chiu, âm thầm gom nắng, hong gió để kết tinh ra vị mặn của nghĩa tình. Đời con sẽ khác. Nhưng nếu trong bước chân con còn vang lên tiếng xêu lạo xạo, còn nhớ đến hương vị mặn mòi của làng thì trăng trong lòng lão vẫn còn nguyên vẹn, dù đã lặn phía chân trời.

Lão siết nhẹ cán xêu trong tay. Đôi vai run nhưng không gồng lên nữa. Trong ánh nắng mới, dáng lưng lão vẫn còng, vẫn nhỏ thó như bị nắng đè xuống. Nhưng không gãy. Không còn rệu rã. Mà vững như mặt đất, âm thầm nâng đỡ từng bước chân con gái bước đi xa hơn.

Sau lưng họ, vầng trăng mỏng như một dải khói cuối cùng đang lặng lẽ tan vào hư không. Không ai ngoái lại. Nhưng cả hai đều biết: Trăng chỉ lặn dưới mặt đất. Còn trong lòng nó vẫn sáng.

Lượt xem: 2
Nguồn:giaoducthoidai.vn Sao chép liên kết
Bài viết liên quan

Nội dung đang cập nhật...