• :
  • :

Vì sao thị phần hàng Việt tại EU vẫn thấp?

Trong 5 năm qua nhiều mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang Châu Âu chỉ chiếm từ 2%-6% thị phần, rất nhỏ so với dung lượng thị trường.
 

Chiều 17-10, tại TP.HCM, Bộ Công Thương phối hợp với Đại sứ quán các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) và EuroCham tổ chức Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Thương mại Việt Nam – EU năm 2025 với chủ đề “Khai phá những xung lực mới”. Chương trình có sự đồng hành của Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam.

​Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Công Thương Phan Thị Thắng cho biết sau 5 năm thực thi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU liên tục tăng.

​Cụ thể, kim ngạch từ 48,9 tỉ USD trước khi hiệp định có hiệu lực đã tăng lên gần 78 tỉ USD vào năm thứ năm, ghi nhận mức tăng trưởng bình quân 10,1%. Trong đó, xuất khẩu sang thị trường EU tăng bình quân 11,7%, nhập khẩu từ thị trường EU tăng bình quân 6,1%.

Theo Thứ trưởng Phan Thị Thắng, ưu đãi cắt giảm thuế quan theo EVFTA đã góp phần đáng kể giúp Việt Nam và EU nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị phần tại thị trường của nhau.

​EU hiện là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba và thị trường nhập khẩu lớn thứ năm của Việt Nam. Ở chiều ngược lại, Việt Nam trở thành đối tác thương mại lớn nhất của EU trong khối ASEAN và thuộc nhóm 10 nhà cung ứng hàng hóa hàng đầu cho thị trường EU.

​Bà Thắng nhận định việc phát huy những thành quả và hiện thực hóa các cơ hội hợp tác mới là yêu cầu cấp bách nhưng cũng là thách thức không nhỏ. Điều này đòi hỏi quyết tâm, nỗ lực rất lớn từ Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến ngày càng phức tạp, khó đoán định.

​Trong nỗ lực đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp hai bên, diễn đàn được tổ chức để các bên cùng trao đổi, nhận định về triển vọng thị trường. Từ đó, diễn đàn khuyến nghị các giải pháp thích ứng kịp thời, đồng thời gợi mở phương hướng hợp tác, đầu tư trong các lĩnh vực kinh tế mới, tiềm năng.​

Là người theo dõi quá trình đàm phán và thực thi EVFTA, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), thẳng thắn cho biết nếu xét về mặt tích cực thì con số tuyệt đối đã tăng trưởng.

​Trước năm 2020, kim ngạch trao đổi hai chiều đạt trên 50 tỉ USD, đến hết năm 2024 đạt hơn 65 tỉ USD, tăng khoảng 25%. Các ngành hàng như thủy sản, da giày, dệt may cũng cho thấy sự tăng trưởng về giá trị tuyệt đối.

​Tuy nhiên, ông Khanh nhấn mạnh cần phải suy ngẫm khi nhìn sâu vào các con số này. Đơn cử, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU năm 2020 đạt 50 triệu USD, năm 2022 đạt 1,3 tỉ USD, sau đó xuống còn 1 tỉ USD rồi tăng lên 1,1 tỉ USD.

​Thêm vào đó, nhiều mặt hàng chủ lực của Việt Nam tại châu Âu trong 5 năm qua chỉ chiếm từ 2% đến 6% thị phần. Ví dụ, thủy sản chiếm hơn 4%, nông sản 6%. Con số này rất nhỏ so với quy mô thị trường.

​Mỗi năm, EU nhập khẩu khoảng 2,64 ngàn tỉ euro trong khi Việt Nam chỉ chiếm 1,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của khối này. Rõ ràng hai bên còn dư địa rất lớn để khai thác.

​Theo ông Khanh, 5 năm qua là thời gian “vàng” nhưng thị phần hàng Việt không tăng nhiều. Trong bối cảnh thế giới thay đổi, EU đang thúc đẩy các hiệp định thương mại tự do với những quốc gia khác trong khu vực như Indonesia, Ấn Độ. Do đó, có nguy cơ Việt Nam đang dần mất lợi thế về thuế.

​Về lý do khó tăng thị phần thủy sản, bà Tô Thị Tường Lan, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), cho rằng dù ngành đặt mục tiêu 1,5 tỉ USD nhưng khi lên đến 1,2 tỉ USD là đã chạm ngưỡng.​ Lý do là khi EU ưu đãi thuế quan, họ thường đi kèm những ràng buộc rất cao về kỹ thuật và phát triển bền vững.

​Đáng chú ý, theo khảo sát của VASEP vào tháng 5, chỉ 12% doanh nghiệp thủy sản nhận thức rõ tác động của các quy định xanh từ châu Âu hay cơ chế điều chỉnh carbon (CBAM), trong khi 60% còn lại biết rất mơ hồ.

​Bà Lan cho biết các hội viên mong muốn có sự đồng hành ở cấp quốc gia trong hành trình phát triển bền vững. Về khung pháp lý, cần có quy định chi tiết để doanh nghiệp tính toán, chuẩn bị, ví dụ như quy định về tín chỉ carbon vì ngành hải sản có mức phát thải thấp.

​Tuy nhiên, để làm được điều này cần có nguồn lực. Chẳng hạn, Việt Nam đang dẫn đầu về tiêu chuẩn Nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm (ASC) nhưng chi phí để đạt được chứng nhận này rất tốn kém. Hằng năm, doanh nghiệp phải trả chi phí đánh giá rất lớn, gây khó khăn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các hộ nuôi nhỏ lẻ.

​Do đó, cần có cơ chế tài chính xanh hoặc giảm thuế cho các doanh nghiệp tiên phong trong chuyển đổi xanh. Bà Lan dẫn chứng, ở Đức, doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn ASC được vay vốn ưu đãi, Thái Lan cũng có chính sách tương tự.

Lượt xem: 6