• :
  • :

Kinh tế tuần hoàn: Lời giải cho bài toán tăng trưởng?

Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt lịch sử, nơi mà những động lực tăng trưởng cũ đã cạn dần và không còn phù hợp với yêu cầu phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới.

Trong bối cảnh mô hình tăng trưởng tuyến tính truyền thống bộc lộ nhiều giới hạn, kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang trở thành yêu cầu tất yếu để bảo đảm đồng thời mục tiêu tăng trưởng kinh tế, an ninh tài nguyên và an toàn môi trường. Đây không chỉ là xu hướng toàn cầu, mà còn là cơ hội chiến lược để Việt Nam tái định vị mô hình phát triển theo hướng xanh, bền vững và có sức cạnh tranh dài hạn.

Mục tiêu tăng trưởng 2 con số giai đoạn 2026–2030: Động lực nào cho Việt Nam?

Theo nhiều chuyên gia, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026–2030, được đánh giá là thách thức nhưng khả thi nhờ nền tảng vĩ mô ổn định, niềm tin tiêu dùng và FDI mạnh. Để bứt phá, cần đồng thời phát huy động lực truyền thống và các động lực mới dựa trên đổi mới sáng tạo, công nghệ.

TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam nhìn nhận, trong 5 năm qua, Việt Nam đã vượt qua nhiều cú sốc lớn từ dịch bệnh, gián đoạn chuỗi cung ứng đến suy yếu của kinh tế toàn cầu nhưng vẫn duy trì được tăng trưởng cao, có năm vượt 8% và nhiều năm đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5%-7%, điều này cho thấy sức chống chịu nội sinh của nền kinh tế đang tốt lên. Cùng với đó sự ổn định về kinh tế vĩ mô, ổn định về chính trị, niềm tin của tiêu dùng trong nước, niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam… sẽ là nền tảng, cơ sở để tin tưởng vào triển vọng tăng trưởng tốt hơn của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2026 và giai đoạn tiếp theo. Đồng thời cho rằng, khi năng lực nội tại được củng cố, sẽ là điều kiện để đặt ra các mục tiêu cao hơn, kể cả tăng trưởng hai con số.

Cũng theo TS. Lê Duy Bình, để hướng tới tăng trưởng hai con số, Việt Nam phải kích hoạt đồng thời ba động lực then chốt. Thứ nhất là xuất khẩu, khi mà bối cảnh phục hồi của các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản hay ASEAN sẽ mở rộng dư địa tăng trưởng thương mại cho Việt Nam. Cùng việc kim ngạch xuất nhập khẩu năm nay có thể đạt 800-850 tỷ USD sẽ là tín hiệu tích cực cho khả năng bứt phá trong các năm tiếp theo. Song song đó, các căng thẳng thương mại đang được tháo gỡ ở một số nền kinh tế lớn, càng củng cố triển vọng duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu trong giai đoạn tới. Thứ hai về đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, khi hàng loạt dự án hạ tầng trọng điểm hoàn thành vào 2025–2026, cùng với sự trở lại của khu vực tư nhân và dòng vốn FDI giải ngân tích cực, sẽ tạo lực đẩy mạnh mẽ cho tăng trưởng. Tiêu dùng trong nước với thị trường hơn 100 triệu dân, tăng trưởng bán lẻ ổn định 9–10% nhiều năm liền- đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 15 trên thế giới sẽ là động lực vô cùng quan trọng của nền kinh tế trong tương lai.

Tuy nhiên theo GS.TS. Hoàng Văn Cường, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, dù thời gian qua nước ta đạt được nhiều thành tựu nổi bật, song đằng sau sự tăng trưởng đó vẫn còn những hạn chế cần được nhìn nhận rõ ràng. Đó là hiện nay hơn 70% xuất khẩu phụ thuộc vào khu vực FDI, giá trị gia tăng trong nước của các mặt hàng chủ lực chỉ đạt 30 - 35%. Sản xuất nội địa vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, đảm nhận những khâu có giá trị thấp trong chuỗi cung ứng. Năng suất lao động còn thấp, nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” hiện hữu nếu không cải thiện.

kinh-te-tuan-hoan1.jpg

Trong bối cảnh cạnh tranh công nghệ gay gắt, rào cản thương mại mới và xu thế chuyển đổi xanh, chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, theo GS.TS. Hoàng Văn Cường đây là thời điểm để nước ta vươn lên bằng nội lực để thực hiện mục tiêu tăng trưởng 2 con số vào giai đoạn 2026-2030, trong đó cần giảm lệ thuộc vào khu vực FDI và nâng mạnh giá trị gia tăng trong nước thông qua phát triển công nghiệp hỗ trợ, làm chủ công nghệ và tham gia sâu hơn vào các khâu thiết kế, R&D, sản xuất linh kiện. Đồng thời cho rằng, bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay đầy biến động, với căng thẳng địa chính trị, cạnh tranh công nghệ gia tăng, song chính trong thách thức ấy, cánh cửa cơ hội mới lại đang rộng mở. Các xu thế như cách mạng xanh, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa đang làm thay đổi cấu trúc sản xuất và vị thế thương mại toàn cầu. Ở nhiều lĩnh vực mới, khoảng cách giữa quốc gia phát triển và đang phát triển được coi như cùng đứng trên vạch xuất phát. Vì thế, đây chính là thời điểm để Việt Nam bứt phá, tạo sức bật để đủ năng lực cạnh tranh quốc tế.

“Đây là thời điểm để Việt Nam bứt phá, tạo sức bật phát triển từ nội lực nhằm hiện thực hóa khát vọng vươn lên. Nếu hành động kịp thời và đúng hướng, chúng ta có thể tham gia ngay từ đầu vào các ngành công nghệ cao, mới nổi, trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, thay vì chỉ dừng lại ở khâu gia công, lắp ráp. Đây không chỉ là câu chuyện tránh tăng trưởng nóng trong ngắn hạn, mà là lựa chọn con đường phát triển nhanh và bền vững, hướng đến mục tiêu tăng trưởng hai con số. Từ đó, Việt Nam có thể tạo nền tảng vững chắc để trở thành nước phát triển”, GS.TS. Hoàng Văn Cường nói.

Tăng trưởng bền vững từ kinh tế tuần hoàn: Yêu cầu của thời đại mới

Dưới sức ép biến đổi khí hậu, kinh tế tuần hoàn được xem là hướng đi chiến lược giúp Việt Nam tạo đột phá năng suất, giảm phát thải và xây dựng kinh tế phát triển bền vững. Đổi mới mô hình tăng trưởng đã trở thành yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam khi nền kinh tế đang bước vào giai đoạn phát triển mới, trong đó áp lực về năng suất, chất lượng tăng trưởng và cam kết phát thải ròng bằng không đến năm 2050 đặt ra những đòi hỏi mới về cách thức vận hành và sử dụng nguồn lực.

Theo phân tích của PGS TS. Bùi Quang Tuấn - Phó Chủ tịch Hội KHKTVN, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, mô hình tăng trưởng không chỉ phản ánh động lực chủ đạo của một quốc gia mà còn thể hiện mức độ hiện đại của cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng. Việc chuyển từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào khai thác tài nguyên, đất đai và lao động giá rẻ sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã được xác định là định hướng then chốt trong Chiến lược phát triển của Việt Nam giai đoạn tới.

Trong bối cảnh Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu, mục tiêu phát triển bền vững gắn với cam kết phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050 càng cho thấy sự cần thiết của việc tìm kiếm mô hình tăng trưởng mới. Song song đó, Việt Nam đặt ra mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, đòi hỏi nền kinh tế phải có bước chuyển mạnh mẽ về chất lượng, năng suất và khả năng cạnh tranh.

Tuy nhiên, thực trạng mô hình tăng trưởng hiện nay vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Nền kinh tế vẫn phụ thuộc lớn vào lao động giá rẻ, khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực trong nước chưa tạo ra sự gắn kết chặt chẽ; lan tỏa công nghệ từ khu vực FDI còn hạn chế; năng suất lao động dù tăng nhưng vẫn thấp so với các nước ASEAN-4. Theo ước tính, năng suất lao động năm 2024 của Việt Nam đạt 221,9 triệu đồng/lao động, tương đương khoảng 9.182 USD, nhưng vẫn chỉ bằng một phần so với Malaysia, Thái Lan hay Indonesia. Việt Nam cũng chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, trong khi kinh tế chưa xanh, chưa bền vững và mô hình kinh tế tuần hoàn mới chỉ xuất hiện ở phạm vi hẹp tại một số ngành nông nghiệp hoặc khu công nghiệp sinh thái.

Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm đầu tư cho khoa học công nghệ còn hạn chế, doanh nghiệp tư nhân ít chú trọng vào nghiên cứu phát triển, thể chế kinh tế chưa thật sự hoàn chỉnh, nguồn nhân lực thiếu kỹ năng và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo chưa đủ mạnh để tạo bứt phá. Trong bối cảnh đó, kinh tế tuần hoàn nổi lên như lời giải quan trọng cho bài toán đổi mới mô hình tăng trưởng.

“Về bản chất, kinh tế tuần hoàn dựa trên nguyên tắc “mọi thứ đều là đầu vào của nhau”, tạo ra hệ thống phục hồi và tái tạo dựa trên việc kéo dài tuổi thọ vật liệu, tránh lãng phí và giảm thiểu ô nhiễm. Ba trụ cột cốt lõi của kinh tế tuần hoàn gồm: tránh lãng phí, sử dụng sản phẩm lâu dài và tái tạo hệ thống tự nhiên. Kinh tế tuần hoàn không chỉ là phương thức tái chế mà là cách tiếp cận toàn diện từ thiết kế sản phẩm, quy trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng đến thu gom và tái tạo.” - PGS TS. Bùi Quang Tuấn phân tích.

Trong mối liên hệ với đổi mới mô hình tăng trưởng, kinh tế tuần hoàn mang lại nhiều lợi ích rõ rệt. Thứ nhất, việc kéo dài vòng đời tài nguyên giúp giảm chi phí đầu vào, gia tăng hiệu quả sản xuất, thúc đẩy tiết kiệm và nâng cao năng lực cạnh tranh. Thứ hai, kinh tế tuần hoàn tạo động lực thúc đẩy chuyển đổi sang sử dụng năng lượng sạch, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần hiện thực hóa cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu. Thứ ba, việc áp dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, blockchain hay công nghệ thông minh trong hệ thống tuần hoàn giúp tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tạo ra sản phẩm chất lượng hơn mà không làm tăng chi phí sản xuất.

Không chỉ mang lại lợi ích về môi trường và kinh tế, kinh tế tuần hoàn còn thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị, giải quyết điểm yếu lớn nhất của doanh nghiệp Việt Nam là thiếu liên kết và không tham gia sâu vào chuỗi toàn cầu. Việc coi chất thải là đầu vào của quá trình sản xuất mới giúp hình thành một hệ sinh thái sản xuất, tiêu dùng, tái chế thống nhất, tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp xanh, logistics xanh và công nghệ xanh.

Trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh chóng với sự hội tụ của chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo và các xu hướng đô thị hóa, năng lượng mới, thương mại tương lai, kinh tế tuần hoàn không chỉ là yêu cầu cấp bách mà còn là chiến lược nhằm đảm bảo vị thế cạnh tranh của Việt Nam.

Đối với Việt Nam, PGS TS. Bùi Quang Tuấn cho rằng, để kinh tế tuần hoàn thực sự trở thành động lực mới cho tăng trưởng, cần sự phối hợp mạnh mẽ từ Chính phủ và doanh nghiệp. Về phía Nhà nước, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, giảm rào cản về tiêu chuẩn, thúc đẩy thực thi kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn, phát triển hạ tầng thu gom – phân loại – tái chế rác thải, đầu tư hạ tầng số, chia sẻ dữ liệu và tạo môi trường thử nghiệm chính sách (sandbox) cho các mô hình đổi mới sáng tạo. Đồng thời, cần khuyến khích mạnh mẽ doanh nghiệp đầu tư vào R&D, đổi mới công nghệ và sản phẩm xanh.

Về phía doanh nghiệp, việc nâng cao nhận thức, chuẩn bị lộ trình chuyển đổi, đầu tư hạ tầng sản xuất xanh, hình thành văn hóa kinh tế tuần hoàn và văn hóa sống xanh là yếu tố quyết định. Chỉ khi doanh nghiệp chủ động hiểu và tham gia vào cuộc chơi mới, kinh tế tuần hoàn mới thực sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng chất lượng cao và bền vững.

Lượt xem: 1
Tác giả: Khánh An